Bức thư của Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quốc
Marseille ngày 18 tháng 12 năm 1922.
Bức thư gửi cho anh Nguyễn Ái Quốc,
Tôi với anh mấy năm ròng cùng sống nơi đất khách quê người, nhưng mà lòng bọn mình chẳng khi nào quên cái cảnh tượng quê nhà. Chính phủ bảo hộ thì nói rằng cái việc dẹp loạn là để an dân, làm mấy con đường hỏa xa, mấy cái học đường mấy cái nhà thương là để khai hóa xứ An Nam mình. Cái công lao ấy thì báo chương Ba Lê nhan nhản đăng lên, còn cái sưu cao thuế nặng, cái tham quan lại nhũng, cái sĩ khí dân tình bị chém giết, bị bỏ tù, bị đầy ải kia thời họ im phăng phắc. Bởi cái cảnh thất quốc vong, kia lòng dân đồ thán, nên cảnh giang hồ chúng mình làm sao mà nguôi dạ được, hồn tổ quốc nặng trĩu trên vai, xót vì quốc dân đồng bào đương rên xiết bởi cường quyền áp chế.
Thực trạng dân tình thế thái bên nhà bọn mình biết rõ, bấy lâu nay bọn mình ở bên này có đăng bào chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng kết quả chẳng được là bao. Cái khát vọng tự do, bình đẳng, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu, ông Lư Thoa khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào bên đất An Nam mình. Xem thế thì ngẫm ngay được rằng một chủng tộc muốn như chủng tộc văn minh chỉ có tự lập tự cường, nhưng khốn nỗi nước An Nam ta từ ngày quan quân nước Pháp đem binh thuyền đến mà chinh phục mãi tới ngày nay, sĩ khí dân tình khởi sự chống lại chính phủ bảo hộ tiếp diễn liên miên hết cuộc này, đến cuộc khác, rốt cuộc đâu hoàn đó, chẳng nhúc nhích được chút nào. Ngày nay, việc khởi sự lần hồi giảm đi bởi cái dã tâm của hạng người dạ thú, của kẻ đầu trâu mặt ngựa, bởi thiếu người hướng đạo.
Bấy lâu nay tôi cùng anh và Phan đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí ,hậu dân sinh của tôi. Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp “ngọa ngoại chiêu hiền, đã thời đột nộ”i của anh và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Cái điều tôi đã thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tưởng hết sách vở của cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đến đọ với anh Phan. Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế, tôi nói thế chẳng hề dám ví anh là kẻ tử mã lục thạch. Thực tình là từ trước tới nay tôi chẳng khinh thị anh, mà tôi còn phục anh nữa là khác. Tôi thực tình có sao nói nấy, không ton hót anh tí nào.
Mấy việc nói qua trên kia để bọn mình ôn cố một chút, còn lần này tôi phải viết một cái thư này cho anh là tôi có cái hi vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự. Phàm thử muốn thức tỉnh quốc dân, đồng bào đánh đổ cường quyền áp chế, thời từ xưa đến nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh, anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngọa ngoại chiêu hiền, đã thời đột nội”, cứ như cái phương pháp ấy, thời anh viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi vì quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ quốc ngữ, cầm tờ báo mà đọc nổi. Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay phương pháp tốt, thâu tóm được chữ nghĩa, có chí mưu cầu lại quyền cho quốc dân, đồng bào thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh khác gì công đã tràng. Bởi cái lẽ đó mà tôi khuyên anh thu xếp mà về, đem tài năng của mình khích động nhân tâm, hô hào đồng bào ba kì đồng tâm hiệp lực để mà đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công.
Tôi biết anh hấp thu được cái chủ nghĩa của ông Mã Khắc Tư (Karl Marx), ông Lý Ninh (Lénine), nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh rõ. Ông Mã vốn sinh trưởng trên đất Đức Ý Chi, ông bị chính phủ tầm nã vì cái tội cách mệnh, đành lánh nạn sang nước Anh Cát Lợi, sau ông lại lội về ứcc Ý Chi mà làm việc, vả lại còn nói cách mệnh nhân quyền của cả thế gian, là cái rốn chính ở ngay trên đất Đức Ý Chi nên ông ấy về để mà làm việc.
Lý cũng bị cái chính phủ cường quyền Nga La Tư truy nã, ông phải lánh nạn sang cái xứ Phát La Tây, Đức Ý Chi và Lang Sa rồi ông trở lại trở về nước hô hào dân thợ, dân cày, lính tráng đoàn kết mới làm nổi cái cách mạng mà dân u Mỹ đều thần phục.
Cứ xem hai ông Mã, Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa có ông nào dùng cái lối nương náu đất người mà làm quốc sự cho mình như anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lý thuyết hai ông ấy thì anh nghe lời tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết, có phải là cái phương pháp hay biết chừng nào.
Lại còn có điều ngộ bất trắc sa cơ, đương nhiên là dự phòng xa, thời ắt là lợi hơn thiển cận, song lẽ từ xưa đến nay biết bao nhân nhân, chí sĩ nước mình hoặc khởi sự hay ôn hòa đương đầu với cường quyền áp chế, mấy ai khỏi vòng lao lung tù tội, đầy ải chém giết. Ông Đề Thám bị biêu đầu giữa chợ, ông Phan Đình Phùng bị đào mà ném xuống sông, ông Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ Khoa Huân bị đầy biệt xứ và nhiều không thể xiết sự đầu rơi máu chảy… Ngại vì sa cơ thì e rằng bỏ mất cái tài của mình, cơ hội chạy qua như dòng nước. Bởi thế cho nên phương pháp qui sào giác thế mà anh làm được, thì may mắn cho quốc dân, đồng bào ta biết nhường nào. Giả như không làm được như thế, thời tài năng của anh ắt là mai một.
Anh cứ xem ông Phan Bội Châu hồi trước chẳng nghe lời tôi, mang người mang của đến cái đất Phù Tang, cầu cứu nghĩa cử đồng văn, đồng chủng, chạy đông chạy tây, di ngoại đột nội, rốt cuộc chỉ làm được mấy lần khởi sự. Vả lại cái chủ trương của ông Phan mới xem qua thì hay lắm, song gẫm cho kỹ càng thì chẳng khác gì cái phương pháp của họ Lê cầu Thanh diệt Trịnh, họ Nguyễn cầu viện Pháp đình đánh Tây Sơn. Cổ lai thế sự còn rành rành ra đó, ấy thế mà ông Phan cứ tôn thờ cái bài vị đồng văn, dfồng chủng. Thảng như cái phương pháp của ông Phan mà thành công thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người cưỡi mà thôi. Hồi ông mới mưu đồ quốc sự, tôi có nói với ông là ông hãy ở nhà cùng với nhân dân chí sĩ ba kì mà thức tỉnh nhân tâm, hợp quần hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai lấy thấu rõ ngọn nguồn đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền, đông tây sao mà chẳng vỗ nên bộp? Ấy thế mà ông Phan chẳng thèm nghe, mà mãi cho tới nay ông vẫn còn cứ cho phương pháp của ông là hay. Tôi biết anh cũng chẳng tán đồng cái phương pháp của ông Phan và lại tôi cũng còn tin rằng không sớm thì chầy, anh cũng lấy cái phương pháp khẩu xướng đối nhân, dụng nội triệt ngoại cùng với sĩ phu dân chúng ba kỳ mà mưu đồ đại sự.
Từ xưa tới nay tôi cứ cho cái phương pháp của tôi có nhiều sự hay hơn nhiều sự dở, vì rằng người nước mình nên có chính phủ bảo hộ trông, dưới là một bầy tham quan lại nhũng, học thức trong đám dân chúng kém cỏi, thì còn gì tốt lành bằng cái tôi dựa vào lý thuyết nhân quyền để mà cổ động sĩ khí dân tình, tôi thực hành cái phương pháp ấy thì tôi làm cái lối khẩu thuyết vô bằng mà hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực, kết đoàn hợp xã, dân tình thức tỉnh, kháng thuế cự sưu, tố giác quan tham lại nhũng, lại bất hợp tác từ cái này đến cái nọ, dân chúng đông tây vỗ lên bộp mà đòi lại lợi quyền.
Cái lối khẩu thuyết vô bằng, mình có thể phơi bày hết điều hơn lẽ thiệt, ngộ mà ai có phản nghịch tố giác cũng chẳng có chứng cớ minh bạch mà làm tù, làm tội nặng cho mình được. Đương nhiên, cái lối đó cũng khó bề kéo dài, họ ắt vịn cớ này, cớ nọ để mà làm tội làm tình, thế nhưng cái lúc đó vị tất không có người tiếp tục cái lối của mình hay sao? Cứ như cái hồi cự sưu có anh Châu Thơ Đồng, há chẳng dùng lối ấy mà hô hào dân chúng cho đến khi không còn nói ra tiếng rồi chết, ấy là sự thật đã qua. Còn ngày nay cũng làm cái lối ấy chẳng may bị sa cơ, thể tất lại chẳng có người nối tiếp mình thức tỉnh nhân quần, bằng cái lối đó chắc là cuồn cuộn dâng lên, rồi một ngày kia khác nào như ngọn thủy triều lôi cuốn mất cường quyền áp chế. Bởi vậy anh coi cái lối của tôi mà tốt, thì anh cứ thể nghiệm. Anh mà làm theo tôi sẽ thâm căn cố đế trong đám dân tình, chí sĩ… chớ mà anh khư khư cái lối của anh, cứ ở bên này viết báo chương, hô hào lý thuyết thì tôi e rằng công dày mưu cao của anh cứ lần hồi mà mai một.
Tôi là một người có án tích, lại cư trú bên này, chân tay bị bó rọ l, thế mà tôi cũng cứ có nguyện vọng sẽ xin chính phủ và bộ Pháp quốc hải ngoại cho tôi về Tàu làm cái nghề viết báo chữ Hán mà kiếm sống, rồi may ra có cơ hội tôi lại về. Một khi mà tôi đặt chân lên quê hương xứ sở tôi nguyện đem hết nghị lực bình sanh mà thức tỉnh dân khí ba kì đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền áp chế…
Anh Nguyễn, tôi tường tâm với anh đã rõ nguồn cơn. Bây giờ thân tôi tợ chim lồng, cá chậu. Vả lại, cây già thì gió dễ lay, người già thì trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong, mà hơi tàn cũng phải gào cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn anh như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông, nhưng mà anh chẳng nghe lời tôi, anh cứ quanh quẩn bên này, thời làm sao mà tài năng của anh thi thố được? Bởi vậy tôi thành tâm khuyên anh, mong mỏi anh hay đổi cái phương pháp cũ kĩ đi, để mà mưu đồ đại sự. Tôi cầu chúc anh thành công và hi vọng thấy mặt nhau ở quê hương xứ sở.
Người bạn Kính thư
Phan Châu Trinh
Chú thích:
- Ba Lê: Tức thành phố Paris, Pháp
- Mạnh Đức Tư Cưu: Phát âm Hán-Việt tên của Montesquieu
- Lư Thoa: Phát âm Hán-Việt tên của Jean-Jacques Rousseau.
- Mã Khắc Tư: Phát âm Hán-Việt tên của Karl Marx
- Lý Ninh: Phát âm Hán-Việt tên của Lê-nin
- Phát La Tây: Phát âm Hán-Việt tên nước Phần Lan
- Lang Sa: Phát âm Hán-Việt tên nước Pháp