Nhà khai sáng

Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh (1872 – 1926)

Phan Châu Trinh (1872 – 1926) là một nhân vật lịch sử tiêu biểu trong phong trào cách mạng Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Ông là người đã đề xuất các tư tưởng dân chủ và dân quyền sớm nhất và hùng hồn nhất tại Việt Nam. Suốt cuộc đời, ông kiên trì cổ vũ cho một giải pháp ôn hòa, chủ trương phát triển đất nước từng bước một bên trong hệ thống thuộc địa của Pháp.

Mang trong mình những hoài bão lớn, Phan Châu Trinh mong muốn bỏ cởi bỏ ách thống trị của người Pháp, giành lại chủ quyền cho đất nước, đưa dân tộc Việt Nam lên ngang hàng với các dân tộc khác trên thế giới. Ông cổ xúy tinh thần yêu nước, quảng bá công cuộc Duy Tân, đem tâm huyết, tác phẩm và cả cuộc đời để đóng góp vào sự nghiệp chung.

THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Phan Châu Trinh tên chữ là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã. Ông sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Cha ông là Phan Văn Bình làm quan võ, mẹ của ông họ Lê, con nhà vọng tộc ở làng Phú Lâm. Ông là con út trong gia đình có ba người con, mẹ ông mất sớm, 10 tuổi ông mới đi học.

Từ khi còn trẻ tuổi, Phan Châu Trinh đã là người thông minh, khẳng khái. Ông đi tới đâu nổi tiếng đến đó, việc không kể lớn nhỏ cứ lấy lẽ phải mà tranh biện.

Năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang, và Phạm Liệu.

Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường Thừa Thiên. Năm sau (1901), triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.

Vào nam, ra bắc, sang Nhật

Năm 1902 ông ở Huế để chờ bổ nhiệm chức vụ, tuy nhiên do anh cả của ông mất nên ông đã về nhà để dạy học. Năm 1903 ông lại được cử làm Thừa biện bộ Lễ. Ông ở Huế được mấy năm đã nghiên cứu được cái nguyên nhân hủ bại của triều đình và lại được giao du được với những người tân học như Trần Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ. Ông cũng đọc được nhiều sách mới, báo mới. Từ ấy về sau ông quyết chí bỏ quan, tìm bạn đồng chí đem học thuyết tư tưởng mới mà truyền bá để trừ cái độc chuyên chế và tệ nho học ở nước mình. Phan Bội Châu ở Nghệ An vào Huế gặp ông để bàn bạc về canh tân đất nước, tuy nhiều ý kiến, quan điểm không giống nhau nhưng cả hai đều có chí hướng thay đổi tình cảnh của nước mình. Năm 1903 ông từ quan, cùng bạn đồng chí là Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp phát động phong trào Duy Tân.

Đầu năm 1906, ông ra miền Bắc để gặp các thân sĩ Bắc Kì chuẩn bị thành lập cơ sở duy tân tại Hà Nội (sau này là trường Đông Kinh nghĩa thục), ghé thăm chiến khu Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, rồi thẳng đường sang Trung Quốc, Nhật Bản để thương thảo về “sách lược” và “chiến lược” với Phan Bội Châu, đồng thời tham quan và nghiên cứu các cơ sở duy tân tự cường của Nhật. Cuối năm này ông về nước gửi bức thư chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Toàn quyền Paul Beau vạch trần chế độ quân chủ chuyên chế thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp người Việt từng bước tiến lên văn minh.

Sau khi từ Nhật Bản về, ông cùng các thân sĩ miền Bắc chính thức lập trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội và tại nơi đây ông đã diễn thuyết nhiều lần hô hào nhân dân duy tân, tự cường.

Phong trào Duy Tân

Phan Châu Trinh ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp đang ráo riết tiến hành việc đánh chiếm toàn bộ Việt Nam. Hai hiệp ước Quý Mùi (25/8/1883) và Giáp Thân (6/6/1884) đánh dấu sự đầu hàng giai cấp phong kiến Việt Nam trước chủ nghĩa đế quốc Pháp. Thế nhưng với một tinh thần kiên cường bất khuất, phong trào đấu tranh vũ trang Cần Vương của người dân Việt Nam yêu nước đã bùng nổ mạnh mẽ ngay sau đó rồi kéo dài trong nhiều năm (1885 – 1896), với sự tham gia quên mình của đông đảo quần chúng.

Quê hương Quảng Nam của Phan Châu Trinh là một địa phương sớm hưởng ứng phong trào và thân sinh của cụ là Phan Văn Bình, một võ quan triều đình cũng có tham gia. Tuy nhiên phong trào trong tỉnh sớm lâm vào giai đoạn thoái trào, cuộc khởi nghĩa Nguyễn Duy Hiệu chỉ sau hai năm hoạt động đã tan rã (1885 – 1887). Hoàn cảnh đó làm cho Phan Châu Trinh tuy lúc đó mới 15 tuổi không khỏi suy nghĩ về hiệu quả của con đường vũ trang bạo động.

Phong trào Cần Vương trong cả nước sau đó với hai đỉnh cao là Ba Đình – Hùng Lĩnh (Thanh Hóa) và Hương Sơn – Hương Khê (Hà Tĩnh) cũng lần lượt thất bại trước sự đàn áp man rợ của thực dân Pháp có tay sai phong bến tiếp sức. Tình hình đó càng thêm củng cố nhận thức của Phan Châu Trinh về sự bất lực của con đường bạo động Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX với một tương quan lực lượng địch ta hoàn toàn bất lợi cho ta.

Trong số các sĩ phu đương thời và cả sau này, Phan Châu Trinh là người thấy rõ nhất những nhược điểm của con người và xã hội Việt Nam. Ông chủ trương phải thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao trình độ trí tuệ và đạo đức của người Việt, phát triển kinh tế – văn hóa, học những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây,ông từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu… Ông cho rằng Việt Nam phải phát triển kinh tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh rồi mới nên mưu cầu độc lập chứ không nên cầu viện ngoại bang dùng bạo lực để giành độc lập như chủ trương của Phan Bội Châu. Phong trào Duy Tân ra đời từ đó.

Với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh đã cùng với Huỳnh Thúc KhángTrần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Phương thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, giáo dục ý thức công dân – tinh thần tự do, xây dựng cá nhân độc lập – tự chủ – có trách nhiệm với bản thân và xã hội, thay đổi tận gốc rễ nền văn hóa – tâm lý – tính cách – tư duy – tập quán của người Việt, phổ biến các giá trị của nền văn minh phương Tây như pháp quyền – dân quyền – nhân quyền – dân chủ – tự do – bình đẳng – bác ái, cải cách trên mọi lãnh vực. Phong trào thực hiện mục tiêu cải tạo con người và xã hội Việt Nam bằng cách khuyến khích cải cách giáo dục (bỏ lối học từ chương, xóa mù chữ bằng cách phát động phong trào học Quốc ngữ), mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, thay đổi tập quán (cắt tóc ngắn, cắt ngắn móng tay)…

Thời gian này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca kêu gọi mọi người duy tân theo hướng khai minh và phát triển thực nghiệp.

Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ cùng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục.

Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, giải thoát khỏi tư tưởng chuyên chế phong kiến.

Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội địa hóa,…

NGƯỜI CHÍ SĨ CÁCH MẠNG

Nhờ đáp ứng được một yêu cầu bức thiết của quần chúng và của thời đại, phong trào Duy Tân nhanh chóng lan rộng trong tỉnh, các nông hội, hội buôn, xướng dệt, trường học theo lối mới ra đời ngày càng nhiều, đồng bào đua nhau cắt tóc ngắn, mặc áo ngấn, bỏ rượu chè, bài trừ hủ tục, dị đoan, cổ động dùng hàng nội hóa…

Thông qua con đường tuyên truyền phổ biến văn thơ yêu nước kêu gọi đoàn kết, giáo dục truyền thống dân tộc, cổ động thực hiện cải cách, các tư tưởng đổi mới ngày càng đi sâu vào quần chúng. Quần chúng ở đây chủ yếu lại là nông dân lâu nay chất chứa hờn căm vì sưu cao, thuế nặng, phu phen tạp dịch, vốn quen với đấu tranh bạo động truyền thống, nên tư tưởng mới đã tác động với một sức mạnh phi thường, lôi cuốn họ lên đường đấu tranh. Trên đà đó, cuộc vận động cải cách ở Quảng Nam và dọc theo các tỉnh miền Trung chuyển hướng, tiến nhanh tới những cuộc biểu tình rộng lớn chống thuế trong năm 1908, huy động tới hàng vạn người lên đường đấu tranh trực diện chống lại thực dân Pháp và phong kiến tay sai.

Những lần bị bắt giam

Đầu tháng tư năm 1908, phong trào Duy Tân bị triều Nguyễn và chính phủ bảo hộ Pháp đàn áp dữ dội. Lúc ấy Phan Châu Trinh cùng nhiều thành viên trong phong trào Duy Tân bị nhà cầm quyền buộc tội là đã khởi xướng phong trào nên đều bị bắt.

Phan Châu Trinh bị giải về Huế. Tòa Khâm sứ Huế và Nam triều đều muốn khép ông vào tội chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội, họ buộc lòng phải kết ông án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên” (nghĩa là tội chém nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), rồi đày đi Côn Đảo ngày 4 tháng 4 năm 1908.

Nhờ dư luận trong nước và nhờ có sự vận động của Hội Nhân quyền ngay trên đất Pháp, đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh. Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án cho ông được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc. Ở đây, ông làm nhiều bài thơ về các nhân vật tên tuổi của Nam Kỳ.

Bởi không hoạt động gì được, ông phản đối quyết liệt bằng cách viết thư cho Toàn quyền Đông Dương đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Lôn, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho nữa. Vì vậy, nhân có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.

Sang Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền Pháp bản điều trần về vụ trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ năm 1908 (thường gọi là Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký).

Sau đó, ông còn lên tiếng tố cáo tình trạng các tù nhân ở Côn Lôn bị đối xử tồi tệ, và nhờ Liên minh cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp can thiệp nhằm giảm án cho các đồng chí của mình.

Ông cũng đã tiếp xúc nhiều lần với những nhân vật cao cấp ở Bộ Thuộc địa, với Albert Sarraut (sắp sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương) để đưa ra những dự án cải tổ nền chính trị ở Việt Nam nhưng không có kết quả, vì lúc này thế lực của thực dân hãy còn đang mạnh. Trong khoảng thời gian này, ông viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam.

Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo – Hung tuyên chiến với Serbia, mở màn cho Thế chiến thứ nhất. Sau đó, ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với Pháp. Nhân cơ hội này, nhà cầm quyền thủ đô Paris (Pháp) gọi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, một luật sư, nhà báo người Việt chống thực dân, đi lính, nhưng hai ông phản đối do không phải là công dân Pháp. Mấy tháng sau, chính quyền khép tội hai ông là gián điệp của Đức để bắt Phan Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ở nhà tù Santé (Prison de la Santé), Paris, kể từ tháng 9 năm 1914.

Do việc Phan Châu Trinh bị bắt giam nên trợ cấp giảng dạy của ông bị cắt, con ông mất học bổng, phải vừa học vừa làm. Cũng trong năm này, vợ ông là bà Lê Thị Tỵ qua đời ở quê nhà ngày 12 tháng 5 năm 1914.

Tháng 7 năm 1915, vì không đủ bằng chứng buộc tội, chính quyền Pháp phải trả tự do cho hai ông sau nhiều tháng giam giữ. Sau khi ra tù, Phan Châu Trinh đã soạn tuyển tập thơ Santé thi tập với hơn 200 bài thơ ông sáng tác trong tù.

Ra tù, Phan Châu Trinh học nghề rửa ảnh rồi làm thuê cho các hiệu chụp ảnh để kiếm sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, giá sinh hoạt đắt đỏ, cảnh ngộ của hai cha con rất đỗi cơ cực. Chẳng lâu sau, Phan Châu Dật phải bỏ học về nước vì bị lao ruột và qua đời tại Huế ngày 14 tháng 2 năm 1921, được đem về an táng cạnh mộ mẹ tại Tây Lộc (Tiên Phước, Quảng Nam).

Ngày 19 tháng 6 năm 1919, Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là “Nguyễn Ái Quốc”, và đã gây được tiếng vang.

Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội vua Khải Định 7 điều (Thất Điều Trần hay Thư Thất Điều), khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể. Cũng trong năm này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca mới. Xuyên suốt tác phẩm này vẫn là một đường lối cải cách dân chủ, vẫn là thực trạng tăm tối của xã hội thực dân phong kiến và những thủ đoạn tàn bạo của chính sách thuộc địa ở Việt Nam.

Thấy hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, đã nhiều lần ông yêu cầu chính phủ Pháp cho ông trở về quê hương nhưng đều không được chấp thuận. Mãi đến năm 1925, khi thấy sức khỏe ông đã suy yếu, nhà cầm quyền Pháp mới cho phép ông về nước. Khoảng thời gian này, ông viết cuốn “Đông Dương chính trị luận”.

Thời gian ở Pháp, ông viết một loạt các tác phẩm:

  • Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam
  • Cuộc ngoại nhân kim nhật chi Trung Quốc quan
  • Ký Khải Định hoàng đế thư
  • Tây Hồ và Santé thi tập
  • Tỉnh quốc hồn ca II
  • Giai nhân kỳ ngộ diễn ca

và một số tác phẩm khác…

Về nước rồi qua đời

Năm 1925, chính sách thực dân có một vài thay đổi nhỏ, nhân cơ hội đó Phan Châu Trinh được chấp thuận để về Tổ quốc Tháng 6 năm 1925. Cùng về nước với ông có Nguyễn An Ninh. Tàu vừa cập bến Sài Gòn ông đã được đông đảo đồng bào đây đón rước niềm nở. Ông về ngụ tại số 54 đường Pellerin bên cạnh đó còn có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường và Trần Huy Liệu.

Từ ngày về nước ông phải làm việc gấp bội nên trong một thời gian ngắn bệnh cũ của ông tái phát trầm trọng. Tuy vậy trong thời gian này ông đã tổ chức hai buổi diễn thuyết tại Hội Thanh niên Sài Gòn về “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”, “Đạo đức và luân lí Đông Tây”.

Ông trút hơi thở cuối cùng vào 9:30 tối ngày 24/03/1926 tại “khách quán” số 54 đường Pellerin Sài Gòn (nay là đường Pasteur).

Tin buồn được loan báo khắp nơi, đồng bào toàn quốc để để tang tỏ lòng thương tiếc nhà yêu nước suốt đời hiến thân cho dân cho nước đến hơi thở cuối cùng.

Rất nhiều cá nhân và tổ chức gửi câu đối và thơ văn đến đám tang của ông. Trong số đó có bài điếu văn của Huỳnh Thúc Kháng, người bạn thân thiết của Phan Châu Trinh, phản ánh rõ nét cuộc đời và quan điểm chính trị của ông.

Hơn 6 vạn người dân đã đến Sài Gòn, không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo tham dự, đã đưa linh cữu Phan Châu Trinh đến nghĩa trang của hội Gò Công tương tế lúc 6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1926.

Bất chấp sự ngăn cản của chính quyền thực dân, phong trào làm lễ truy điệu Phan Châu Trinh được tổ chức rộng rãi ở khắp ba kỳ, trở thành một sự kiện chính trị nổi bật lúc bấy giờ. Đám tang nhà chí sĩ họ Phan được xem như quốc tang không chỉ ở Sài Gòn mà toàn quốc đều cử hành tang lễ vô cùng trọng thể.

Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Năm 1926, có một sự thức tỉnh trong toàn quốc tiếp theo sau cái chết của một nhà quốc gia chủ nghĩa già – Phan Châu Trinh. Khắp trong nước đều có lễ truy điệu… Chữ “Chủ nghĩa Quốc gia” từ đó được nói và viết công khai. Những giáo viên người Pháp tìm cách ngăn cấm học sinh tham gia các cuộc meeting đó. Nam nữ học sinh ở nhiều trường, đặc biệt là Sài Gòn là nơi tổ chức đám tang, đã tuyên bố bãi khóa. Hai mươi ngàn người đi theo linh cữu mang biểu ngữ viết những khẩu hiệu có tính chất quốc gia chủ nghĩa. Người An Nam chưa hề được chứng kiến một việc to lớn như vậy bao giờ trong lịch sử.”

Từ khi mở mắt chào đời cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, Phan Châu Trinh vẫn vẹn nguyên khí chất cương quyết, khảng khái, luôn luôn căm thù bất công và không câu nệ, cố chấp. Sống trong đời thời đại mất nước nên ông đã đau khổ và dằn vặt mình suốt đời. Có thể nói, suốt đời ông mang một nỗi bất bình lớn, mà người đời ít hiểu ông một cách tường tận.

Trong cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục (Nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn, 1974), học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét:

“Cụ Tây Hồ là người mở đường cho phong trào Duy Tân ở nước ta. Lập Nghĩa Thục, một phần công lớn là của Cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là Cụ, đi khắp nơi diễn thuyết là Cụ, khuyên quốc dân cắt tóc là Cụ, liệng cái Phó bảng mà lập ra hiệu buôn cũng là Cụ, bỏ tục nhuộm răng, vận âu phục bằng nội hóa thì người đầu tiên cũng lại là Cụ”

Còn với nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt Nam:

“Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ 20.

Đặc biệt hơn nữa là con đường ông chọn là con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Đây là điểm khác biệt chính giữa ông và Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh xem vấn đề dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tin rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ.”

TƯ LIỆU THAM KHẢO:

  1. Phan Châu Trinh – cuộc đời và sự nghiệp, Đinh Xuân Lâm, website Chúng ta, https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/phan_chau_trinh-cuoc_doi_va_su_nghiep.html
  2. Phan Châu Trinh và cuộc đời cách mạng, Tác giả xứ Quảng, Báo Đà Nẵng điện tử, https://baodanang.vn/tac-gia-xu-quang/201411/phan-chau-trinh-va-cuoc-doi-cach-mang-2379098/
  3. Phan Châu Trinh, Wikipedia tiếng Việt, https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_Ch%C3%A2u_Trinh